Bệnh tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea - PED) là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do virus thuộc họ Coronaviridae gây ra. PED xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào năm 1971, sau đó bệnh lây lan ra nhiều quốc gia khác ở Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan.
Tại Việt Nam, PED lần đầu tiên được phát hiện ở Đồng Nai vào năm 2008 và từ đó đến nay, bệnh lây lan khắp các địa bàn trong tỉnh cũng như nhiều tỉnh thành khác. Bệnh lan rộng ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và tiếp tục mở rộng lên các tỉnh phía Bắc, gây ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi heo do làm tăng tỷ lệ bệnh, tỷ lệ chết cao đặc biệt trên heo con theo mẹ. Mặc dù việc tiêm phòng hoặc phương pháp vaccine chuồng đã được áp dụng đặc biệt là ở các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, tuy nhiên PED vẫn xảy ra và thường xuyên tái phát.
Bệnh phát sinh và lây lan nhanh trực tiếp từ con ốm sang con khỏe, hoặc gián tiếp qua phương tiện vận chuyển, qua thức ăn, nước uống nhiễm mầm bệnh.
Tác nhân gây bệnh
Hình 1: Sơ đồ bộ gen của PEDv
Virus gây bệnh tiêu chảy cấp (PED) như thế nào?
Tác nhân ngoại nhiễm:
Khi heo khỏe mạnh tiếp xúc với các nguồn gây bệnh tiêu chảy cấp (PED) như: heo mang mầm bệnh, phân, tinh heo, vật dụng chăn nuôi có mầm bệnh, xe tải, con người, nguồn nước…Virus sẽ từ các nguồn đó xâm nhập vào cơ thể heo chủ yếu thông qua đường tiêu hóa.
Tác nhân nội nhiễm:
Virus sau khi lây nhiễm sẽ xâm nhập vào ruột non và tăng sinh trong lông nhung, phá huỷ niêm mạc thượng bì ruột non. Từ đó gây mất cân bằng điện giải, tiêu chảy, mất nước nghiêm trọng, rối loạn các men tiêu hoá nên không thể tiêu hóa sữa. Lợn chết do mất nước và không hấp thu thức ăn, mất năng lượng và nhiệt
Hình 2: Con đường lây nhiễm PEDv
Triệu chứng và dấu hiệu phát hiện bệnh
Trên lợn con đang theo mẹ: tiêu chảy rất nặng, phân màu vàng, tanh. Lợn bú ít hoặc bỏ bú và ói mửa. Lợn sụt cân nhanh, trở nên gầy ốm do mất nước. Da nhăn, lông dài, thân nhiệt giảm vì vậy lợn con thường nằm chồng lên nhau hoặc nằm lên bụng mẹ.
Hình 3: Lợn tiêu chảy nặng, phân vàng
Trên lợn cai sữa, lợn vỗ béo và lợn nái, sức đề kháng cao hơn đồng thời hệ thống lông nhung trên niêm mạc ruột cũng khó bị phá hủy hơn nên tỷ lệ chết không cao nhưng tỷ lệ mắc bệnh vẫn cao.
Triệu chứng thường gặp là tiêu chảy với phân màu xanh xám hoặc hơi vàng, có bọt khí và mùi tanh không có máu và chất nhầy. Các dấu hiệu lâm sàng ở nhóm lợn lớn hơn này sẽ tự giới hạn trong vòng 1 tuần sau khi phát bệnh. Tuy nhiên, PED có thể ảnh hưởng đến năng suất sinh trưởng của lợn đang tuổi lớn. Lợn nái có thể không bị tiêu chảy và thường biểu hiện các triệu chứng chán ăn. Nếu lợn nái sắp đẻ bị mất con, sau đó chúng có thể bị rối loạn sinh sản bao gồm mất sữa hoặc chậm động dục do không có lợn con bú trong thời kỳ cho con bú.
Ngoài ra lợn nhiễm bệnh cũng sẽ chịu các tổn thương đại thể và vi thể. Các tổn thương đại thể chỉ giới hạn ở đường tiêu hóa, có thể nhận thấy được dạ dày căng phồng chứa đầy những cục sữa chưa tiêu và thành ruột mỏng (tá tràng đến đại tràng), trong suốt với sự tích tụ chất lỏng màu vàng. Hạch lâm ba màng treo ruột có thể bị phù nề, xuất huyết nhẹ. Ở lợn vỗ béo chết đột ngột, có thể xuất hiện hoại tử cơ lưng diện rộng
Làm thế nào để phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh?
- Thực hiện an toàn sinh học: Thực hiện an toàn sinh học chặt chẽ và kiểm tra, phát hiện sớm dấu hiệu bệnh lý. Ngoài ra, tiêm phòng cho lợn nái là một công cụ cơ bản trong chiến lược kiểm soát và tiêu diệt PEDv. Hoặc nếu trong đàn đã có lợn con nhiễm PED, có thể tự tạo auto-vaccine bằng cách xay nhỏ ruột lợn con nhiễm bệnh trộn chung với sữa, kháng sinh và cám để cho lợn nái ăn đến khi có biểu hiện tiêu chảy.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, dù đã có vaccine phòng ngừa PED, nhưng các nghiên cứu về trình tự gen S của các chủng PEDv được phân lập trong giai đoạn 2012–2016 tại Việt Nam cho thấy các chủng này đã trải qua những thay đổi đáng chú ý, điều này có thể gây ra sự giảm hiệu quả của vaccine lên lợn được tiêm chủng.
Giải pháp TBR trong việc phát hiện chẩn đoán PED
Theo tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 8400-38:2015 có 2 phương pháp chẩn đoán PED.
Cặp mồi/ Mẫu dò |
Trình tự gen (5'-3’) |
Đầu dò - JVM (146/08) |
FAM - TGTTGCCATTGCCACGACTCCTGC - BHQ1 |
Mồi xuôi - JVM (146/08) |
CGCAAAGAGAACCCACTAATTT |
Mồi ngược - JVM (146/08) |
TTGCCTCTGTTGTTACTTGGAGAT |
Sử dụng kit chẩn đoán PED:
TOPSPEC® PED RT-QPCR KIT (SQV-110)
Chi tiết xem tại
Bài viết khác
Các loại virus thường gặp gây ung thư ở người